Cuộc Cách mạng tháng Tám đã mở ra cho dân tộc Việt Nam một giai đoạn văn học mới. Vừa lấy lại được chủ quyền, dân tộc đã phải lao vào hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chống Mỹ vô cùng ác liệt. Sau ba mươi năm chiến đấu đầy gian khổ hy sinh, nhân dân ta giành được thắng lợi hoàn toàn vào mùa xuân 1975. Văn học Việt Nam 1945 - 1975 đã phát huy mạnh mẽ chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa nhân đạo trong truyền thống lịch sử của văn học dân tộc. Có thể nói, chủ nghĩa yêu nước là cái huyệt thần kinh nhạy bén nhất của người Việt Nam. Thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược nước ta đã đập mạnh vào cái huyệt thần kinh ấy. Truyền thống yêu nước liền được khơi dậy mạnh mẽ hơn bao giờ hết và là một trong hai nguồn cảm hứng lớn nhất của văn học dân tộc. Trong những năm kháng chiến chống Pháp tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu là một bức tranh toàn cảnh, chân thực, sinh động và xúc động về cuộc kháng chiến và những con người kháng chiến. Anh vệ quốc quân hiền lành, chân thực và gần gũi. Giọt giọt mồ hôi rơi Trên má anh vùng nghệ Anh vệ quốc quân ơi Sao mà yêu anh thế (Cá nước) Chú bé liên lạc hồn nhiên, vui tươi, nhí nhảnh, tận tụy với công việc, coi thường hiểm nguy và tuy hy sinh rồi đấy, nhưng vẫn còn sống mãi: Cháu nằm trên lúa, Tay nắm chặt bông Lúa thơm mùi sữa Hồn bay giữa đồng (Lượm) Những bà Bầm, bà Bủ thương con vô cùng nhưng cũng yêu nước vô hạn, những người phụ nữ đi “phá đường” tiêu thổ kháng chiến, những anh thợ mạ vàng làm thuốc pháo, chị công nhân mòn đêm vận tải, các chiến sĩ Điện Biên “đầu nung lửa sắt”, những “em thơ đốt đuốc đến trường làng...". Đó chính là hình ảnh quân và dân ta, lực lượng và sức mạnh trường kỳ kháng chiến. Hình ảnh lãnh tụ, vừa lớn lao vừa bình dị, hiện thân của sức mạnh, nghị lực và niềm tin, người dẫn dắt, động viên và nâng đỡ chúng ta đi đến chiến thắng: Bác Hồ đó chiếc áo nâu giản dị Màu quê hương bền bỉ đậm đà T a bên Người, Người tỏa sáng trong ta Ta bỗng lớn ở bên Người một chút (Sáng tháng năm) Những người chiến sĩ trong thơ của Hồng Nguyên ra đi và lớn lên trong cuộc đời áo vải, chân đất của nhiều miền quê, của nhiều cảnh ngộ. Vốn kiến thức quân sự ít ỏi, vũ khí thiếu thốn, đời sống vật chất nhiều khó khăn, chỉ có dư dật về tinh thần, tìm địch mà đánh và tin tưởng lạc quan, hồn nhiên vào chiến thắng cuối cùng. Nhà thơ đã vẽ lên được những nét rất chân thực và sinh động về người lính trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến đầy gian khổ: “ Lột sắt đường tàu, Rèn thêm dao kiếm, Áo vải chân không, Đi lung giặc đánh” nhưng cũng rất lạc quan, yêu đời irong những Lúc: Nghỉ lại lưng đèo Nằm trên dốc nắng Kỳ hộ lưng nhau ngang bờ cát trắng Qườ chân tìm hơi ấm đêm mưa Đằng nớ vợ chưa ? Đằng nớ? Tớ còn chờ độc lập Cả lũ cười vang bên ruộng bắp, Nhìn cô thôn nữ cuối nương dâu. (Nhớ) Chính Hữu lại đi sâu diễn tả mối tình đồng chí, đồng đội quan hệ tình cảm rất tốt đẹp và rất mới. Cũng từ những phương trời xa lạ rồi trở thành tri kỷ, thân quen bởi cùng một đội ngũ chiến đấu, cùng một lý tưởng, chung một cuộc đời, thương yêu nhau, sống chết có nhau, nương tựa nhau càng thăm thiết trong hoàn cảnh hết sức khắc nghiệt: Áo anh rách vai Quần tôi có vài manh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày Thương nhau ta nắm lấy bàn tay Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo (Đồng chí) Tiếp đến Hoàng Lộc trong Viếng bạn đã thể hiện được nỗi xót xa, đau đớn của người lính khi đồng đội mình hy sinh nhưng nỗi đau ấy không hề bi lụy mà chuyển hóa thành sức mạnh: Mai mốt bên cửa rừng Anh có nghe súng nổ Là chúng tôi đang cố Tiêu diệt kẻ thù chung. Và Vũ Cao trong bài thơ trữ tình giàu màu sắc lại thể hiện vẻ đẹp của người lính trên một khía cạnh khác. Người lính chiến thắng trở về quê, cảnh vẫn đây nhưng người yêu không còn nữa, cô gái đã hy sinh. Những kỷ niệm của tuổi trẻ, những lời hò hẹn năm xưa như vẫn đợi mà anh mất em. Nhưng người chiến sĩ vẫn có thể đi tiếp con đường của mình, không để đau thương quật ngã, trái lại trở thành một động lực có sức thúc đẩy mạnh mẽ trong cuộc sống chiến đấu của mình: Anh đi bộ đội sao trên mũ Mãi mãi là sao sáng dẫn đường Em sẽ là hoa trên đỉnh núi Bốn mùa th(tm mãi cánh hoa thơm (Núi đôi) Và không thể không nhắc đến Tây Tiến của Quang Dũng, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Màu tím hoa sim của Hữu Loan... Còn trong kháng chiến chống Mỹ khi đất nước bị xâm lược, yêu nước tất phải hành động, phải chuyển thành chủ nghĩa anh hùng. Cuộc chiến tranh nhân dân đưực phát huy đến cao độ đã tạo nên một chủ nghĩa anh hùng toàn dân. Cho nên người đàn bà có con mọn cũng hăng hái cầm súng, những em nhỏ cũng muốn lập chiến công, bà mẹ già cũng tham gia chiến đấu. Cả nước thành chiến sĩ, ở tác phẩm Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành) đó là cuộc nỗi dậy của dân làng Xô man và của cả Tây Nguyên bất khuất, anh hùng. Và Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi), Mảnh trăng cuối rừng (Nguyễn Mimh Châu), Quán rượu người câm (Nguyễn Quang Sáng) đều nói lên tinh thần bất khuất của nhân dân ta, không ngại hiểm nguy, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ Tổ quốc, quê hương. Họ lẫm liệt, hào hùng trong tư thế tiến công ở ngay cả phút cuối cùng của đời mình: Anh ngã xuống trên đường băng Tân Sơn Nhất Nhưng gượng đứng lên tì súng bên xác trực thăng Và anh chết trong khi đang đứng bắn Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng (Dáng đứng Việi Nam) Tiêu biểu cho chủ nghĩa yêu nước giai đoạn này nổi lên hai bài thơ Sao chiến thắng (Chế Lan Viên) và Cuộc chia ly màu đỏ (Nguyễn Mỹ). Ở Sao chiến thắng, những câu thơ hay nhất là những câu thơ nói về tình yêu đất nước, những lời kêu gọi tha thiết và cổ động cho tình cảm này đất nước gắn liền với ngững gì gần gũi nhất, thân thiết nhất, cũng như những gì lớn lao nhất, thiêng liêng nhất. Nếu chỉ vì cái gần gũi thì tình yêu trở nên tầm thường, nếu chỉ vì cái lớn lao thì tình yêu Tổ quốc thuộc vào những câu thơ vẫn còn được ghi nhớ: Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt Như mẹ cha ta như vợ như chồng Ôi Tổ quốc nếu cần ta chết Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông... (ChếLan Viên) Điệp ngữ “ Hãy yêu", ''Hãy yêu tất cả”,"Hãy yêu và bảo vệ” được lặp lại nhiều lần, yêu từ cái cụ thể và gần gũi “một chiếc cầu, một ô cửa sổ mới sơn" đến những cái trừu tượng. Nhà thơ kêu gọi tình yêu nước gắn liền với bảo vệ đất nước: Hãy yêu! Hãy yêu! Hãy yêu và bảo vệ Mây nước, cửa nhà, văn học,ngữ ngôn Một đảo vắng Hòn Ngư còn chớp bể Một rặng núi Kỳ Sơn từng lắm lúc mưa nguồn Nhân vật anh hùng, biểu tượng đẹp đẽ của những con người chiến thắng được thể hiện qua hình tượng những người lính trẻ. Họ mang trong lòng mình một niềm căm giận lớn, không có chuẩn mực nào đo được, niềm kiêu hãnh về những trang sử oanh liệt và đẫm máu của ông cha ta và cái lý lẽ chiến đấu thật đơn giản. Giặc đánh thì ta đánh trả Họ mang trong mình một quyết tâm chiến đấu lớn, quyết chặn đường những tội ác đẫm máu của kẻ thù: Chớ để cho chúng đến gieo khăn tang và nạng gỗ Xây dựng những pháp trường và kiến thiết những thay ma Súng Mỹ chưa vào phòng ta ở, dao cứa vào trên cổ họng ta ca. Và với những vũ khí trong tay, họ sẵn sàng chiến đấu, không chờ đợi không cầu toàn: Thần chiến thắng là những người áo vải Những binh nhất, binh nhì mười tám tuổi Giết quân thù không đợi có hạt nhân Còn Cuộc chia ly màu đỏ lại nói về một cuộc chia ly cụ thể, trong một trường hợp cụ thể: một người vợ tiễn chồng ra tuyến lửa. Mở đầu bài thơ là màu đỏ của thời điểm chia ly hiện tại, kết thúc bài thơ vẫn là màu đỏ ấy nhưng là màu đỏ của trí tưởng tượng và thời điểm sắp tới. Màu đỏ của chuối rừng, của bếp lửa, cùng là màu đỏ của hoài niệm, của sự liên tưởng nhớ nhung. Người lính mang cuộc chia ly màu đỏ này trên suốt chặng đường hành quân, mang sắc trời, sắc áo vào trong cuộc chiến đấu và đương nhiên sức mạnh nhân lên gấp bội. Bởi vậy có thể nghĩ rằng: Như không hề có cuộc chia ly. Chủ nghĩa yêu nước là một trong hai nguồn cảm hứng lớn nhất của văn học dân tộc, nó xuyên suốt những năm chiến tranh. Nếu không có chủ nghĩa yêu nước thì Đảng ta, nhân dân ta không làm nên hai cuộc chiến thắng kỳ vĩ: Điện Biên Phủ (1954) và đại thắng mùa xuân 1975. Yêu nước là căm thù giặc, là yêu Tổ quốc đau thương anh hùng, là thiết tha yêu cuộc sống tốt đẹp. Và chủ nghĩa yêu nước được mãi mài tồn tại, bất diệt và được tiếp nối nâng cao qua suốt mọi thế hệ.