Mạnh mẽ, sôi nổi và ồn ào, Xuân Diệu với làng thơ như có sẵn duyên với nghệ thuật, bất ngờ viết lên trang đời những dòng thơ ngọt ngào cảm xúc, mang theo chất men say của thế giới tâm hồn ăm ắp sự sống. Yêu thơ, yêu đến mãnh liệt, sống với thơ sống đến cuồng nhiệt, Xuân Diệu rộng mở vòng tay đón nhận tình yêu nồng ấm tha thiết bằng cặp mắt “xanh non” của mình. Thơ ông vì vậy đi vào lòng người tự nhiên với biết bao tâm trạng và tình cảm. Yêu đời, yêu người ấy là cốt cách của ông, viết về thiên nhiên ấy chính là nghệ thuật của người cầm bút. Cảnh sắc trong thơ ông có lúc mơn mởn sự sống nhưng nhiều khi lại trầm lắng và sâu sắc đến không ngờ. Ta đón nhận nơi ông một hồn thơ như vậy.
Thiên nhiên – một thế giới nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu. Hoài Thanh đã từng nói: “Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”, mới từ cách nhìn, cách cảm, mới từ chiều sâu suy nghĩ đến cách diễn đạt bằng những hình tượng thơ, cũng như bao nhà văn, nhà thơ khác, những tác phẩm của ông gắn liền với hai nhân vật “thiên nhiên” và “con người”. Ông yêu con người và say đắm cùng thiên nhiên. Từ nỗi cô đơn vì tình yêu say đắm, đơn phương nơi thế giới loài người, ông tìm đến với thiên nhiên, mang đến cho nó một tâm hồn thời đại, một tiếng nói của nhà thơ và tâm sự của một người biết yêu. Xuân Diệu thường nôn nóng đón chờ ở thiên nhiên một tiếng nói cảm thông, an ủi, chan chứa yêu thương. Ta hiểu tâm trạng của ông đối với nhân tình thế thái nên ta tìm thấy trong những bài thơ ông viết về thiên nhiên một vẻ Đẹp và Buồn. Trong bốn bài Đây mùa thu tới, Vội vàng, Thơ duyên, Nguyệt Cầm tiêu biểu cho phong cách và thơ Xuân Diệu thì có ba bài viết về mùa thu. Vội vàng được tác giả lấy cảm hứng từ mùa xuân nhưng vẫn thoảng chút bâng khuâng của một tâm hồn đa sầu, đa cảm, đa tình và rất đa tài nữa. Xuân Diệu đã thổi vào những vần thơ về thiên nhiên tình cảm nồng nàn, sôi nổi, chính vì vậy nó đã trở thành nhân vật không thể thiếu, tràn trề, đầy sức sống, chứa chan cảm xúc đẹp và buồn một cách rất Xuân Diệu. Thiên nhiên trong thơ xưa thường có những hình ảnh ước lệ của thơ Đường “Tin sương hiu hắt hơi may” hay “Lác đác ngô đồng mấy lá bay”. Đến Xuân Diệu ông vẫn vận dụng vốn văn chương cổ truyền ấy nhưng đã có sự cách tân, sáng tạo. Tiêu biểu là bài Đây mùa thu tới:
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng!
Đây mùa thu tới, mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng”
Đã bao giờ mùa thu Việt Nam được tả đẹp như thế. Ở Nguyễn Khuyến là những hình ảnh thơ thanh thoát, man mác một nỗi buồn thoảng qua bầu trời thu trong xanh:
– “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao…”
– “Nước biếc trông như tầng khói phủ” còn Xuân Diệu, ông nhìn mùa thu thật là, cái giá lạnh trong tâm hồn cô đơn đã thấm sâu vào từng hình ảnh “Rặng liễu đìu hiu” – Một hình ảnh ước lệ, hiu hắt và yếu ớt. Để rồi kéo theo hàng loạt những ẩn dụ, tượng trưng gây ấn tượng, cảm xúc mạnh mẽ: “Tóc buồn”, “lệ ngàn hàng”. Câu thơ như trầm xuống, buồn mà vẫn đẹp, những thanh bằng liền nhau, dàn trải và mênh mông. Nhưng rất đột ngột, mùa thu tới nghe rất hân hoan, như thỏa nguyện niềm ước mong bấy lâu. Cảm xúc ấy thường trực trong con người Xuân Diệu như chỉ chờ lúc để bật ra. Đó là một mong muốn, khát khao giao cảm đến kỳ lạ chỉ Xuân Diệu và mình Xuân Diệu mới có. Câu thơ tưởng như báo hiệu một điều gì mới nhưng bỗng chững lại, hạ xuống, và màu sắc thiên nhiên lại hiện ra: phai mà vẫn thắm, tàn mà như mới và vẫn đẹp “Với áo mơ phai dệt lá vàng”: “Áo mơ phai” sắc đất, sắc trời, sắc cây lá, màu của thời gian và tiếng gọi của lòng người, hòa hợp, đan kết bao trùm lên cảnh vật trong thế giới suy tư của nhà thơ. Hình ảnh thơ đẹp và sáng tạo nên đến không ngờ, nó có vẻ gần với những vần thơ đẹp trong Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử “trong làn nắng ửng, khói mơ tan” nhẹ nhàng, thanh lọc, lãng đãng như gần, như xa.
thiennhientrongthoxuandieu
Thiên nhiên trong các bài thơ của Xuân Diệu
Đi sâu vào cảm xúc nhà thơ, mùa thu lại hiện ra đặc sắc hơn bao giờ hết: “Hơn một loài hoa đã rụng cành”. “Sắc đỏ rũa màu xanh”, “luồng rung rẩy rung rinh lá…” Tác giả đón nhận và cảm nhận bằng trực giác. Cái lạnh trong lòng đã khiến nhà thơ tưởng như “Những luồng rung rẩy rung rinh”. Luôn luôn thường trực trong Xuân Diệu ấy là nỗi buồn cô đơn cùng với nỗi niềm cô quạnh để rồi chỉ thấy trong mùa thu “Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”. Từ “hoa lá cành” tác giả đi vào “trăng sương gió” vẫn long lanh đọng theo những giọt buồn. Toàn thân nhà thơ run lên, những xúc cảm mạnh mẽ, lan tỏa và thấm đẫm vào thiên nhiên. Một cảm giác lạnh lẽo, chợt ùa về, chợt xâm chiếm, chợt ngưng đọng và tan ra… Nếu Đây mùa thu tới đẹp trong cái tang tóc của thiên nhiên giữa những dự cảm giao mùa của Xuân Diệu thì với Nguyệt Cầm một ấn tượng siêu thực, bao trùm lên tất cả khiến ta ớn lạnh:
Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh,
Trăng thương, thương nhớ, hỡi trăng ngần”
Trăng đẹp quá, đẹp lộng lẫy đến lạnh lùng, một cái lạnh da diết nhập vào năm từ “trăng” “nguyệt” không đủ sức chứa trong haị câu thơ, cái lạnh ấy lan tỏa vào đất trời, vào tâm hồn thi nhân đang mở rộng lồng mình. Điệp từ “trăng” xoáy sâu vào lòng người tạo nên một ấn tượng, một niềm cảm xúc mãnh liệt và da diết nhất. Trăng đẹp bởi trăng lạnh do tiếng đàn ngân nga, réo rắt. Trăng hiện ra và trăng in đậm:
“Mây vắng, trời trong, đêm thủy tinh
Linh lung bóng sáng bỗng rùng mình”.
Bầu trời trong vắt, trong như thủy tinh, sáng như thủy tinh nhưng cái trong ấy chỉ làm tăng thêm cái lạnh, lạnh của đất trời nhưng lại gây u ám cho lòng người. “Bóng sáng bỗng rung mình” ở đây có từ chuyển đổi từ thị giác sang xúc giác, cái lạnh của thiên nhiên hay chính cái lạnh của tác giả khiến thi nhấn ớn lạnh, rùng mình, lại thêm “đàn ghê như nước lạnh”… Như làm nổi bật hai cái hoang vắng, hiu hắt, lạnh lẽo của thiên nhiên “dấu phẩy ngắt giữa nước và lạnh như một cái rùng mình giữa hai lần lạnh”. Cảm giác ngày một tăng lên, cái lạnh ngày một thấm sâu trong tâm hồn và trải rộng ra cùng đêm khuya lặng ngắt:
“Bón bề ánh nhạc: biển pha lê;
Chiếc đảo hồn tôi rợi bốn bề…
Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
Nghe sầu âm nhạc đến sao khuê”
Tất cả các hình ảnh “bốn bề, rợn bốn bề, làm thinh, nín thở…” đã tạo nên cái tĩnh cho cả khổ thơ nhưng lại khuấy động cảm xúc tưởng đã trầm lặng của nhà thơ. Hai từ “bốn bể” được đặt đầu câu thứ nhất và cuối câu thứ hai đã gói trọn tâm hồn tác giả trong ngoại cảnh làm tăng thêm nỗi cô đơn. Nhà thơ chơi vơi theo tiếng đàn, lơ lửng cùng ánh “nguyệt tỏ ngời”, vươn tới một thế giới không tưởng “sao Khuê”, thế giới của tâm linh đẹp, huyền ảo và cũng thật lạnh. Nguyệt cầm ngoài sự hòa hợp giữa trăng và tiếng đàn còn có tiếng nói chung của nhà thơ thiên nhiên – đêm thu. Cảnh giác lạnh, hình tượng đẹp, trong như “pha lê” đã theo suốt chiều dài câu chữ như một sự hòa hợp thú vị. Chỉ với mùa thu, vậy mà biết bao trạng thái tình cảm, đã làm trái tim tác giả rung động. Xuân Diệu nói bằng âm thanh, hình tượng của thiên nhiên và bằng cả tiếng lòng sôi nổi thương yêu tha thiết, mãnh liệt của mình.
Xuân Diệu là nhà thơ của tình yêu, của tuổi trẻ. Thơ duyên ấy là cái mộng mơ trong sáng của một con mắt đang yêu:
“Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên,
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền”
Lời thơ đẹp trong là sự huyền diệu của vạn vật trong mối giao duyên (đất trời, đất – trời, cây – chim) và mối lương duyên đang hé nở trong lòng người. Màu xanh của lá, màu xanh của trời, màu xanh trong mắt thi nhân, màu xanh trong tâm hồn và suy nghĩ. Tất cả đã làm nên một ước vọng: Hồn thu. Nhưng thật bất ngờ, thoáng chút buồn thoảng qua đã khiến thiên nhiên buồn trở lại, xa vắng, cô liêu.
“Con đường nho nhỏ, gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang, nắng trở chiều.”
Thì ra không phải thiên nhiên mà do một tình cảm mới lạ lùng đang xâm chiếm tâm hồn. “Gió xiêu xiêu” khiến con đường cũng “xiêu xiêu” là bởi tâm hồn nhà thơ cũng “xiêu xiêu”. Chỉ trong hai câu thơ mà có tới ba từ láy, ba từ láy hoàn toàn “nho nhỏ”, “xiêu xiêu”, “lả lả”. Cái gì cũng nghiêng đi như chính tình cảm của nhân vật trữ tình đang xao xuyến, ngây ngất trong tình yêu.
“Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy
Lòng anh thôi đã cưới lòng em”
Mở đầu bài thơ là”Chiều mộng hòa thơ” nhưng đến kết thúc đã đột ngột trở thành “chiều hôm ngơ ngẩn”. Phải chăng đó chính là tâm trạng, là nỗi lòng đang trắc trở băn khoăn, ngẩn ngơ của chính tác giả trước mùa thu? Bài thơ là sự thay đổi của tâm trạng trữ tình làm thiên nhiên cũng thay đổi. Đó chính là sự phức tạp trong cảm xúc của Xuân Diệu nhưng lại có sự nhất quán trong tư tưởng và cách biểu hiện. Thiên nhiên đẹp một cách dịu dàng trong mối giao hòa đầy chất thơ. Độc đáo và tài hoa, ấy là Xuân Diệu và hồn thơ Xuân Diệu.
Nhanh hơn, gấp gáp hơn, Vội vàng – đúng như nhan đề – đã khơi sâu một cảm giác mãnh liệt, một tư tưởng sống hết mình, sống là mình.
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
Xuân Diệu mang cảm hứng thời gian và ý thức cá nhân vào mùa xuân. Từ gốc độ cá nhân, tác giả nhìn sự biến thiên của sự vật. Điệp từ “ta muốn” thể hiện một ước vọng, một khát khao đến cháy bỏng, đến nao lòng. Mùa xuân tươi đẹp, mùa của tình yêu đã đến.
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si”
Tác giả có quyền ao ước hạnh phúc. Mùa xuân đã ban phát niềm vui cho tất cả, và Xuân Diệu – nhà thơ của tình yêu ấy – yêu đến say mê cuồng nhiệt đã giao cảm với đất trời để thấy mình trong đó. Nhà thơ có cảm nghĩ thật đặc biệt:
“Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”
Với việc thu ảnh hưởng của văn học phương Tây trong cách dùng từ ngữ hình ảnh (này đây, này đây) với một tình yêu mãnh liệt luôn thường trực trong lòng, Xuân Diệu đã qua thiên nhiên nói lên tình yêu cuộc sống tha thiết đến vồ vập “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”. Đây là sự thăng hoa của ấn tượng cảm xúc nồng nàn và say mê. Tác giả yêu mùa xuân, mùa của tình yêu, như đã bao lần gán cho nó hình ảnh người phụ nữ:
“Lá liễu dài như một nét mi
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
Xuân Diệu luôn bộc lộ một cách trực diện những cảm nghĩ của mình. Điều đó khiến ông khác với các nhà thơ khác, nhất là các nhà thơ thời trước, khiến thơ ông thu hút và làm say mê biết bao tâm hồn. Vội vàng là bài thơ viết về mùa xuân, ở đó bùng lên một ngọn lửa sống nồng ấm mãnh liệt, gấp gáp và tươi vui, sống cho mình và cho mùa xuân của đất trời, của mọi người. Thiên nhiên trong thơ Xuân Diệu có những nét đặc sắc, độc đáo. Mùa xuân cũng như mùa thu hay buổi giao mùa, thơ Xuân Diệu vẫn khắc họa đậm nét cá tính và tình yêu của ông. Thiên nhiên buồn hay vui, trầm lắng hay sôi nổi đều đi qua con mắt thẩm mĩ giao cảm mới mẻ của Xuân Diệu. Thơ ông là tiếng lòng ông, thiên nhiên là tâm sự khỏa lấp khoảng trống trong tâm hồn ông. Xuân Diệu là nhà thơ của tình yêu, thiên nhiên là hình thức biểu hiện của tình yêu đó, là nơi ông gửi gắm tâm trạng, những ý nghĩ khiến ông trăn trở. Khi ông thất vọng cô đơn, thiên nhiên lạnh lẽo trầm lắng, khi ông vội vã sống, vội vã yêu, thiên nhiên tươi sáng chan hòa. Tuy nhiên nếu như để tâm hồn mình cũng ngập chìm trong đó, ta sẽ thấy vương vấn man mác một nỗi buồn mới nhìn tưởng như là muôn thuở nhưng nhìn kĩ thì nó mang dấu ấn của một lớp người, của một thời đại đã qua có thể được sự cảm thông của nhiều thế hệ sau.