Là một nhân chứng của lịch sử Việt Nam trong giai đoạn đất nước chuyển từ xã hội phong kiến sang xã hội thực dân nửa phong kiến. Trần Tế Xương chấp nhận cảnh “Chạy ăn từng cảnh toát mồ hôi”, dù ông có đậm dọa “Chẳng sang Tàu, tớ cũng sang Tây”, nhưng cho đến khi nhắm mắt ông vẫn chỉ sống thanh bạch, nhờ một tay người vợ xoay xở.
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng”
Chính vì thế Tú Xương càng bật ra tiếng thơ hài hước đến mức cay độc khi phải chứng kiến những cảnh chướng tai gai mắt trong xã hội, mà “cố Kí” là một đối tượng có sức gợi cảm nên thơ.
Có lẽ khi cô Kí còn sống, Tú Xương đã ngán ngẩm lắm rồi khi nghĩ đến nhân tình thế thái. Nhưng vì sau khi cô Kí chết, ông mới có thơ về cô. Và chăng khi người nằm xuống, chấm dứt một cuộc đời, nhưng lại để lại một câu chuyện hay hay? Có thể đem ra trình làng! Phan tich mung 2 Tet vieng co ky cua Tu Xuong
Cho nên tác giả làm như ngạc nhiên mà thật ra là để mở đầu câu chuyện một cách ngộ nghĩnh:
“Cô Kí sao mà đã chết ngay,
Ô hay! Giời chẳng nể ông Tây…”
Như vậy, ở hai câu đầu, ta đã thấy lộ ra ba nhân vật: “Cô Kí- ông Tây” và bóng dáng mờ nhạt của thầy Kí, đằng sau tên “cô Kí”. Những từ rất Nôm — thường thấy trong bút pháp thơ Đường luật của Tú Xương:
“Ô hay… mà sao…”
Thoáng nghe, ta thấy Tú Xương là một người hàng xóm thật dồi dào tình làng nghĩa “hàng phố”. Ông tiếc thương cô Ký với tất cả tấm lòng và oán trách ông trời: sao chẳng “nể ông Tây”.
mung 2 tet vieng co ky
Phân tích bài thơ “Mồng hai Tết viếng cô Kí”
Như vậy, người đã chết nhưng “chưa hết chuyện”. Đọc qua lời thơ, ta nghe như tác giả kêu lên, có thể “diễn Nôm” hai câu thơ này như sau:
“Ôi, cô Kí ơi! Sao cô đi đâu? Vội vã thế?”
Sao cô không sống nữa với thầy Kí và ông Tây? Sao cô “đi sớrn thế?”.
Và khi đọc lại… càng đọc… ta càng thấy những lời gay gắt, nêu hiểu cái nghĩa sâu kín của lời thơ:
“Sao cô Kí lại lìa đời thanh thản dễ dàng thế?”
Cô làm nên bao nhiêu chuyện, sao không ở lại mà thụ hưởng hậu quả…?
Với cách hiểu đó ta thấy tác giả mở đầu câu chuyện về cái chết của cô Kí bằng sự trách cứ bâng quơ, nếu không muốn nói là ỡm ờ:
“Ô hay! Giời chẳng nể ông Tây?”
Nhịp thơ 2/5 phá cách để diễn tả một lời than thật Việt Nam để gởi gắm với ẩn ý rằng:
“Đáng đời ông lắm! Ông có là ông Tây, là viên Cẩm thì giời củng không tha cô gái – già nhân ngãi, non vợ chồng này!”
Thật là một giọng thơ tài tình “ý tại ngôn ngoại”.
Chua chát hơn, tác giả dùng lời nói ngược để mỉa mai cô Kí trong từ “gái tơ” – một từ để chỉ cô gái ngây thơ trong trắng- Đã thế, gái tơ mà lại “đi lấy làm hai họ”. Câu thơ tuy lắt léo nhưng không đến nỗi khó hiểu.
Nghĩa là cô Kí làm vợ bé của thầy Kí – thế đã là một chuyện để tác giả kết án: “đua nhau lấy các thầy”. Ớ đây cô Kí lại làm vợ – làm dâu hai họ: “họ nhà thầy Kí, họ ông Tây”. Nghệ thuật bình đối được sử dụng thật đắt:
“Gái tơ đi lấy làm hai họ
Năm mới vừa sang được một ngày…”
Năm mới ư? Năm mới có điều gì trong thơ Tú Xương ở lúc này ngoài việc “Gái tơ đi lấy làm hai họ”? Một sự đối lập – một thứ “quái thai” của xã hội đương thời! Cái năm mới này nghe ra còn cay đắng hơn, ngán ngẩm hơn cả cái năm mới mà nhà thơ Vị Xuyên ngồi mà nghe về thiên hạ:
“Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau”
Bằng giọng thơ tài tình của tác giả, người nông cạn có thể hiểu rằng nhà thơ đang nức nở:
“Cô Kí ơi, đang mùa xuân rộn rã, hưởng xuân mới được một ngày… sao cô đã ra đi”
Và tiếp theo nỗi tiếc của tác giả là cái “sự thương” của ông chồng và “nước mắt” của hàng phố:
“Hàng phố khóc bằng câu đối đỏ
Ông chồng thương đến cái xe tay”
Ồ! Hóa ra… Cô Kí nằm xuống hàng phố khó bằng những câu đối đỏ chói, rực rỡ để đón chào xuân? Và ông chồng… chồng cô thương cô ư?
Không! Không phải thương cô… mà.
“Thương đến cái xe tay”.
Như vậy là khi “người bạn trăm năm” của ông ta nằm xuống, ông chỉ còn nỗi niềm thương oán là: cửa hàng bán xe tây của ông từ nay chẳng còn ai đi lại giao thiệp với ông Cẩm nữa. Ông mở cửa hiệu xe tay, làm cai cu li xa, do ông Cẩm kiểm soát, đánh thuế và điều hành loại xe này.
Không rõ tên cúng cơm của cô Kí là gì. Hàng phố gọi là cô Kí, kể ra gọi như vậy tiện đủ mọi đường… Cô Kí lấy ông Kí vì cửa hiệu xe tay. Chiếc xe tay là hình ảnh của một thời kì kinh tế Việt Nam chuyển mình từ xã hội phong kiến quá ư lạc hậu qua xã hội nửa phong kiến, nửa thực dân. Cái xã hội “mới” này cần phương tiện đi lại cách tân hơn là “bỏ người trong võng” khiêng đi. Nó cần cho nhiều “thầy”, nhiều “cậu ấm, cô chiêu”… từ nay, cô Kí vĩnh viễn ra đi, làm sao cửa hàng phát đạt, hưng thịnh, để ông thu hốt “trăm nghìn vạn mớ”, để “cho gà ăn bạc” nữa?
Trong cặp luận với hai vế bình đối rất chỉnh này, đập vào mắt ta tai ta hai tiếng “khóc, thương” nhưng trớ trêu thay, người “khóc” cô lại bằng một tâm trạng rộn ràng đón xuân, với câu đối rực rỡ!
Còn ông chồng… Xưa nay, người ta dùng bao nhiêu từ hoa mỹ để nói đến tình nghĩa tào khang – nào là “hương lửa ba sinh” – nào là “trăm năm tạc một chữ đồng đến xương” (Nguyễn Du) nhưng… khi cô Kí nằm xuống, ông chỉ “thương đến cái xe tay”.
Vì cô Kí mất rồi, cửa hiệu lấy đâu ra những đặc ân hậu hỉ của ông Tây? Chính lúc này, không phải là lúc ông thương – mà là lo – “thương” ở đây là lo. Vì lúc này đây, ông biết trước cái vầng hào quang “bảo hộ” sẽ tắt, và những cái xe tay của ông rồi sẽ ế ẩm bởi bị chèn ép.
Qua hai cặp thực và luận, tác giả đã vận dụng nghệ thuật đối để phơi bày một câu chuyện trái tai gai mắt xoay quanh ba nhân vật sống thức bây giờ. Tất cả đều éo le, ngược ngạo… câu chuyện được khép lại với những chi tiết đối lập khá hay ho: Một cô Kí có hai chồng, một tin buồn giữa ngày vui, hàng xóm “khóc” trong tâm trạng rộn ràng đón xuân, người “thương” lại không ngừng cho người chết – mà thương cho những cái xe tay… vô tri vô giác… (vô tri vô giác nhưng nó là tiền).
Nghệ thuật đối trong thơ đã nhấn mạnh những éo le, những cảnh ngược đời, có thật xuất hiện nhan nhản trước mắt tác giả – khi đồng bạc trắng trùm lên, thay đổi mọi cương thường đạo lí.
Cố Kí lấy thầy Kí – vì tiền. Thầy Kí để cô Kí đi với ông Tây cũng vì tiền. Vì tiền, chồng không cần vợ chung thủy, vợ chẳng cần giữ đoan chính…!
Nếu ở hai phần thực – luận, lời phê phán mỉa mai cay đắng còn ẩn hiện trong các các hình ảnh đối lập thì ở hai câu kết, tác giả như một lời kêu to kèm theo cái chép miệng, cái lắc đầu của ông Tú Vị Xuyên:
“Gớm ghê cho những cô con gái
Mà vẫn đua nhau lấy các thầy…”
Không, nếu gọi hai câu kết là một lời than cũng chưa đúng hẳn, nó chỉ mới là một nửa, là một lời nói chưa hết ý – vì đọc đến đây, ta sẽ tự hỏi: Tác giả trách ai đây? Phê phán, kết tội ai đây? Các “cô con gái” gớm ghê hay các thầy đáng gớm ghê, nên họ đua nhau – đồng nghĩa với chen lấn xô đẩy nhau vào cảnh “đua nhau lấy các thầy” thật là một lời mỉa mai, ngán ngẩm, những cũng có vị đắng trên môi.
Ôi, nếu trước kia Hồ Xuân Hương rất sợ cái cảnh:
“Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”.
Đến mức phải chém cha cái số, cái kiếp ấy, thì lúc này các cô không còn sợ gì hết do đồng tiền vừa có sức mạnh “vạn năng” vừa có sức quyến rũ ghê gớm! Âu cũng là một bước trượt dài về đạo lí sống của xã hội đương thời mà Tú Xương vừa phê phán lại vừa chua xót ngậm ngùi.
Kết thúc bài thơ, ta thấy Tú Xương không chỉ luôn luôn là một người trào phúng sâu cay, nhưng bên cạnh cái sâu cay ấy cũng còn một chút xót xa, một lời khuyên nhủ nhiều thiện ý.
Đối tượng mà ông tấn công cũng không nương tay, vạch trần sự bạc bẽo mà không nhượng bộ là “thầy Kí”. Trước cái chết của vợ, hắn còn lộ rõ sự bất nghĩa, hám tiền. Đối với ông Tây thì sao? Tác giả nhắc đến ông Tây một lần duy nhất trong câu hai: “Ô hay! Giời chẳng nể ông Tây” như muốn nói với dân An Nam cũng còn có người nể ông, sợ ông, nhưng trời “thì chẳng nể ông đâu”. Tóm lại, bài thơ mang một chủ đề rất bình thường; phúng điếu một người hàng xóm – thế mà, trong bài thơ ấy, ta thấy rõ thái độ tố cáo phê phán của tác giả với ba hạng người trong xã hội bấy giờ. Một ông Tây làm cò mít xe, chuyên đánh thuế, trông coi xe tay (một thứ xe kéo), một ông Kí lục cai xe, và một “cô Kí” kiêm me Tây… và ba nhân vật ấy xoay quanh nhau một chiếc xe tay… Tức xoay quanh những đồng tiền. Nụ cười của Tú Xương trước một đám ma đã trầm ngâm sâu lắng hơn là nụ cười ồn ào:
“Ôi khí ơi là khí”
Nhưng vẫn là nụ cười đả kích, không khoan nhượng những gì “chướng tai gai mắt”.